Thứ Ba, 30 tháng 7, 2013

Khi truyền hình tin tra hỏi nỗi ngờ...

Nếu cứ xem truyền hình vào những ngày cuối tuần sẽ thấy người Việt Nam ngoài việc xem những bộ phim ướt át và trả thù thì suốt ngày lôi nhau lên các đấu trường thi thố. Sự nghèo nàn trong tư duy sản xuất và phát sóng đã khiến các kênh truyền hình giải trí tự làm mờ nhạt mình theo nhiều nghĩa, và tôn những giá trị ảo. Việc suy tôn này thoạt tiên là quảng cáo những cá nhân chủ nghĩa, nhưng đằng sau đó không gì khác là để đánh bóng cho những chương trình truyền hình, vốn rất chóng vánh bị nhàm sau vài mùa giải.

Từ lá thư khán giả...

Vào những ngày cuối cùng của tháng 7-2013, chúng tôi nhận được một lá thư của khán giả tên Mai Linh gửi từ khu tập thể Bách Khoa, Hà Nội. Lá thư giống như lời ca cẩm đầy tuyệt vọng của một khán giả sát với truyền hình khi những gì là giá trị chủ chốt mà họ tôn thờ nhiều năm đang bị vứt bỏ, thay vào đó là những trò diễn. Bức thư có đoạn: "Tôi chẳng thể hiểu nổi, tại sao cùng kênh truyền hình lại phát liên tục hai chương trình trẻ nít thi hát liền nhau vào buổi tối thứ bảy và chủ nhật, đó là "Giọng hát Việt nhí" và "Đồ Rê Mí". Phải chăng, nhà Đài muốn chủ trương cổ động cho mọi gia đình Việt Nam rằng, muốn con cái thành công thì phải đào tạo thật sớm để ném chúng vào các đấu trường thi thố ca hát và chóng vánh lừng danh?

Về hình thức, hai cuộc thi này có chút khác nhau, nhưng căn bản là đều cùng cho các em bé lên sân khấu và biểu diễn những bài hát do người lớn tham vấn và chọn lựa. Sau đó, chúng sẽ được những vị giám khảo đánh giá, xem xét và rốt cục chúng sẽ bằng cách này hay cách khác rời bỏ cuộc chơi. Và cái kết như chúng ta đều biết, là sẽ tôn một em bé nào đó làm quán quân... Phải vài năm trước, "Đồ Rê Mí" là "đặc sản" của kênh truyền hình đó thì nay nó đã trở nên một món ăn khá mờ nhạt, không hiểu tại sao lãnh đạo kênh này vẫn phát sóng.

Ngoài chuyện phân tách về hai chương trình thi hát cho thiếu nhi, khán giả Mai Linh còn đề cập đến sự đơn điệu trong menu giải trí của kênh truyền hình lớn nhất Việt Nam: "Thực tế chúng ta đều biết, các chương trình thi thố truyền hình dễ gây được hiệu ứng đám đông. Nhưng, tôi có nhớ rằng, ngoài vai trò mua vui thì truyền hình cũng là một cơ quan truyền thông, đưa những thông báo hữu dụng về mọi mặt đến với công chúng cả nước. Menu tiêu khiển buổi tối của khán giả, đặc biệt là những ngày cuối tuần, rất nghèo nàn.


Dù không thích xem trẻ em thi đấu, nhưng khán giả
vẫn ép phải xem "Đồ Rê Mí" và...


Tôi lấy thí dụ, chả hạn như chương trình "Giọng hát Việt" mùa thứ hai, có được một điều mới hơn mùa thứ nhất là chiêu các huấn luyện viên được quyền "cứu" các thí sinh, khiến cho những hào kiệt không bị bỏ sót. Điều này đã khiến khán giả cảm thấy được việc nó bớt nhàm chán hơn. Trong khi đó, những cuộc thi như Sao Mai, gần hai chục năm rồi vẫn nguyên lành một phong cách các thí sinh tuần tự lên hát thật to và giám khảo lần lượt cho điểm rồi trao giải. Thử đặt mình vào tâm lý khán giả, hẳn những người thực hiện chương trình sẽ có câu trả lời, rằng bạn có muốn xem một thứ mà bạn đã thuộc lòng từ trước khi nó diễn ra hay không...

Với những khán ví thử tôi, ngoài những cuộc thi thố để mua vui và những bộ phim phục thù đẫm nước mắt, tôi cần những chương trình truyền hình thực sự gây xúc động. Nó phải tác động được vào đời sống người dân bằng nhiều cách và mang đến cho họ những xúc cảm tốt đẹp và thúc đẩy cuộc sống của họ tươi sáng hơn. Đó cũng là một chức năng quan trong của sự giải trí. Còn những chương trình thi thố trên truyền hình hiện tại, lại cốt tử mang đến sự nghi hoặc và mất lòng tin. Vậy thì truyền hình sinh ra để làm gì"...

... Đến những sự thật đắng lòng

Nếu ai đã từng làm truyền hình giải trí, đều cảm thấy đắng lòng trước một thực tại, những gì càng nhằng càng dễ gây được hiệu ứng cao. Có vẻ như những khán giả truyền hình nghiêm túc ngày càng thưa vắng. Và tuốt luốt những gì người làm chương trình nghĩ ra được là làm sao có những sản phẩm cuộn đám đông càng nhiều càng tốt. Mục đích không phải vì lợi. Của đám đông đó, mà vì chính những công ty chế tạo. Bởi có nhiều khán giả thì lượng rating sẽ rất cao.

Và các đại lý quảng cáo chỉ mua spot lăng xê trong những chương trình có rating ngất ngưởng. Dù rằng, xét cho cùng, ở Việt Nam, người ta chẳng có gì hơn ngoài việc lấy số liệu từ một công ty duy nhất, đó là TNS. Uy tín và số liệu này chuẩn xác đến đâu, có vẻ là điều chưa ai trong ngành lăng xê và truyền hình đặt lên bàn cân một cách nghiêm trang. Điều này lý giải tại sao, chương trình "Giọng hát Việt" vào những tập phát sóng trực tiếp đã tăng giá bán quảng cáo lên hơn gấp đôi, nghĩa là muốn xuất hiện 30 giây trên truyền hình vào giờ phát sóng vàng này, các nhãn hàng sẽ phải trả gần 300 triệu đồng...

Điều đáng nói là, với những người làm chương trình thì mục đích làm ăn đã thấy rất rõ.

Còn nhớ, cách đây chưa lâu, nhạc sỹ Quốc Bảo có san sẻ, những kinh nghiệm ít nhiều đắng cay: Các cuộc thi chỉ là trò quảng cáo mua vui, bởi vì bản thân của các chương trình như The Voice, Idol, Dancing with star... Là để lấy quảng cáo. Nó là cuộc chơi tương đối đại chúng, thậm chí hơi bình dân, dành cho những đối tượng bình dân, thay thế cho dòng "sitcom" (hài kịch tình huống) khi xưa. Cái này có vẻ xăm và hào nhoáng hơn, cuộn được số đông nhiều hơn. Ngày trước, khi Vietnam Idol mùa trước hết khởi động, tôi có tham dự các cuộc họp với mĩ ý đóng góp cho họ rất nhiều, thậm chí góp ý cho các thí sinh. Về sau, tôi nhận ra mình là kẻ vô cùng khờ khạo.


..."Giọng hát Việt nhí" vào giờ vàng hai ngày cuối tuần.

Và mới đậy, nhạc sỹ Huy Tuấn cũng san sẻ, rất nhiều người bị say sưa với các cuộc thi hát trên truyền hình và nghĩ rằng, đó là thước đo của thị trường âm nhạc và thắc mắc sao nhiều hiện tượng trong các cuộc thi hát bất chợt bặt tăm sau khi rời cuộc thi. Thực tại các cuộc thi đó chỉ thuộc về truyền hình, còn thị trường âm nhạc lại là một dòng chảy khác và các cuộc thi ấy chỉ có chức năng độc nhất là phát hiện và giới thiệu những yếu tố mới. Còn để một ca sỹ thành công, thì không đơn giản là cứ đi thi là xong.

Nhìn từ bức xúc của những khán giả thuần tuý như Mai Linh, tác giả bức thư ở trên, và những chia sẻ của những nhà sản xuất âm nhạc như Huy Tuấn và Quốc Bảo, sẽ cho thấy một Thực tế rằng, còn rất lâu nữa khán giả mới được xem những chương trình truyền hình thực sự được sinh sản để phục vụ họ. Họ vẫn phải ưng vài phút xem thi hát và nhiều phút xem quảng cáo. Trong ngành marketing và truyền thông có thuật ngữ "target khách hàng", tức thị các chương trình truyền hình được làm ra hiện trước nhất không phải phục vụ khán giả, mà phải nhắm đến đối tượng khách hàng nào hiệp, để thuyết phục họ bỏ tiền ra tài trợ. Trong cái vòng luẩn quấn của cơm áo gạo tiền và túi tham của nhà sản xuất, thì dù có trả tiền hàng tháng xem truyền hình cáp, khán giả Việt Nam cũng khó lòng có được những chương trình truyền hình giải trí sạch sẽ đích thực để thưởng thức.


Theo Cảnh Sát Toàn Cầu